Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2019

VNSL: CHƯƠNG IV - NHÀ LÝ: LÝ NHÂN TÔNG(tt)




VIỆT NAM SỬ LƯỢC TRONG THƠ

VNSL: PHẦN BA - THỜI KỲ TỰ CHỦ


5/ NHÀ TỐNG LẤY ĐẤT QUẢNG NGUYÊN:
Tống triều nghe tin dữ
Từ Khâm, Liêm, Ung châu
Quan quân Tàu thua trận
Nhà vua đầy tức giận
Sai võ tướng Quách quỳ
Làm quan Chiêu thảo sứ
Triệu Tiết làm phó quan
Hẹn ước với Chiêm Thành
Hẹn với cả Chân Lạp
Cùng tiến đánh Giao Châu
Tháng chạp, năm bính thìn
Năm: một nghìn bảy sáu(1)
Giặc Tàu tới Đại Việt
Lý Thường Kiệt chặn đánh
Trên bờ sông Như Nguyệt(2)
Bờ bên kia, quân Tống
Đá bắn qua như mưa
Quân ta thiệt hại nhiều
Vẫn liều thân chống giữ.
Đêm đó, sông thanh tịnh
Chợt văng vẳng thinh không
Âm thanh như tiếng sấm
Một bài thơ hùng hồn:
SÔNG NÚI NƯỚC NAM VUA NAM Ở(3)
RÀNH RÀNH ĐỊNH PHẬN TẠI SÁCH TRỜI
CỚ SAO LŨ GIẶC SANG XÂM PHẠM
CHÚNG BAY SẼ BỊ ĐÁNH TƠI BỜI

Nghe được lời thơ ấy
Ai nấy đều hân hoan
Quan quân tăng khí thế
Địch chẳng thể tiến lên
Hai bên đều chống giữ
Mãi ở thế giằng co
Kéo dài không có lợi
Lý triều xin hoãn binh.
Tình hình quân nhà Tống
Có thuận lợi hơn gì
Vì thiệt hại cũng lắm
Binh chết hơn một nửa
Thổ nhưỡng, họ chẳng quen
Vua Tống bèn ưng thuận
Lui về giữ Quảng Nguyên(4)
Châu Tư Lang(5), châu Mậu
Tô châu(6) và Ôn châu(7).

Năm: một nghìn bảy tám(8)
Vua Lý sai sứ giả
Tên là Đào Tông Nguyên
Dùng voi thay lễ vật
Dâng cho vua nhà Tống
Người sứ giả họ Đào
Cũng lựa lời nói khéo
Đòi lại đất Quảng Nguyên;
Vua Tống ra điều kiện
Ta phải trả cho Tàu
Những người bị ta bắt
Ở Khâm, Liêm, Ung châu.

Năm một nghìn bảy chín(9)
Nhà vua Lý Nhân Tông
Trả lại cho nhà Tống
Gồm cả nữ và nam
Hai trăm hăm mốt người(10)
Vua lấy lại Quảng Nguyên.
Năm: một nghìn tám bốn(11)
Quan binh bộ Thị lang
Tên là Lê Văn Thịnh
Được cử sang nước Tàu
Bàn việc chia địa giới
Lời phân giải của ông
Thuận tai vua nhà Tống
Vua bằng lòng hoàn trả
Toàn vẹn đất Giao Châu
Nước ta và nước Tàu
Lại thông sứ như xưa.
Năm: một nghìn tám bảy(12)
Đó là năm đinh mão
Nhà Tống sai sứ giả
Sang nước ta, Đại Việt
Phong vương cho Nhân Tông
Gọi là Nam Bình vương.
Và đến năm bính ngọ
Nghìn một trăm hăm sáu(13)
Phía bắc của nước Tàu
Bị nước Kim(14) lấn chiếm
Nhà Tống phải dời đi
Xuống phía nam trấn giữ
Đóng đô ở Hàng Châu(15)
Ta gọi là Nam Tống!
Chú thích:
(1)  Một nghìn bảy sáu: 1076
(2)  Sông Như Nguyệt: đoạn sông Cầu chảy qua làng Như Nguyệt, thuộc tỉnh Bắc Ninh
(3)  Bản gốc của bài thơ:
Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm-phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(4)  Châu Quảng Nguyên: vùng đất thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay
(5)  Châu Tư Lang: thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay
(6)  Châu Tô và châu Mậu: thuộc vùng giáp ranh tỉnh Cao Bằng và Tỉnh Lạng Sơn ngày nay
(7)  Ôn châu: thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay
(8)  Một nghìn bảy tám: 1078
(9)  Năm một nghìn bảy chín: năm 1079
(10)                     Hai trăm hăm mốt người: 221 người. Những người này được trả lại cho nhà Tống-- nam từ 15 tuổi trở lên bị thích chữ: Thiên Tử Binh, từ 20 tuổi trở lên thì bị thích chữ: Đầu Nam Triều lên trán; nữ thì bị thích chữ: Quan Khách trên cánh tay.
(11)                     Năm một nghìn tám bốn: năm 1084
(12)                     Năm một nghìn tám bảy: năm 1087
(13)                     Nghìn một trăm hăm sáu: 1126
(14)                     Nước Kim: vùng đất thuộc Mãn châu
(15)                     Hàng châu: thuộc Triết Giang


6/ ĐÁNH CHIÊM THÀNH:
Năm: một nghìn bảy lăm(1)
Trước khi đánh nhà Tống
Ta sang đánh Chiêm Thành
Bởi họ thường quấy nhiễu
Khiến dân ta khổ sở;
Lý Thường Kiệt sang đó
Đánh tan bọn giặc cỏ
Ông cho vẽ địa đồ
Những châu thuộc về ta
Đấy là châu: Địa Lý
Bố Chính và Ma Linh
Rồi cho người sang ở.
Và đến năm quý mùi
Nghìn một trăm lẻ ba(2)
Xảy ra cuộc phản loạn
Bởi bàn tay Lý Giác
Ngay trên đất Diễn Châu
Lý Thường Kiệt vào đánh
Giác thua, phải bỏ chạy
Trốn sang nước Chiêm Thành;
Tới được nước Chiêm Thành
Hắn tìm Chế Ma Na
Là Quốc vương Chiêm Thành
Cùng ông ta mưu tính
Tiến đánh nước Đại Việt
Lấy lại ba châu cũ
Địa Lý và Ma Linh
Cùng với châu Bố Chính.
Năm sau, năm giáp thân
Nghìn một trăm lẻ bốn(3)
Lý Thường Kiệt cầm binh
Vào đánh nước Chiêm Thành
Chế Ma Na thua chạy
Xin trả lại ba châu(4);
Người lập được công đầu
Tuổi đã ngoài bảy mươi
Tướng quân Lý Thường Kiệt
Trở về nơi chốn cũ
Vần vũ cứ thế trôi
Rồi một năm sau đó
Ông cỡi hạc về trời
Người Đại Việt tiếc thương
Hoài niệm một danh tướng!

Vào một năm đinh vị
Nghìn một trăm hăm bảy(5)
Lý Nhân Tông qua đời
Ngài làm vua Đại Việt
Năm mươi sáu năm trường
Một chặng đường miên man
Có muôn vàn gian khó
Có cả lúc thăng hoa!
Chú thích:
(1)  Năm một nghìn bảy lăm: năm 1075
(2)  Nghìn một trăm lẻ ba: 1103
(3)  Nghìn một trăm lẻ bốn: 1104
(4)  Ba châu: Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính là ba châu mà quốc vương của Chiêm Thành là Chế Củ đã dâng cho vua Thánh Tông để đổi lấy tự do
(5)  Nghìn một trăm hăm bảy: 1127

VNSL: CHƯƠNG IV - NHÀ LÝ: LÝ THẦN TÔNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét