Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: SỨ AN NAM SANG TÀU XIN HÒA




VIỆT NAM SỬ LƯỢC TRONG THƠ

VNSL: PHẦN BA - THỜI KỲ TỰ CHỦ



6/ SỨ AN NAM SANG TÀU XIN HÒA:
Quân Nguyên sang Đại Việt
Mấy lần phải về không
Chẳng những không được gì
Mà còn thua thảm hại.
Nhưng, Đại Việt nước nhỏ
Nước Tàu thì quá to
Nếu cứ mãi chiến tranh
Thắng, bại ta chưa biết
Đã biết trước một điều
Dân ta phải lầm than
Bởi lý do như vậy
Tháng mười năm mậu tý
Nghìn hai trăm tám tám(1)
Nhà vua Trần Nhân Tông
Sai ông Đỗ Thiên Thứ
Sang sứ bên nước Tàu
Xin hòa hiếu như xưa.
Nguyên chủ liền ưng thuận
Chấp nhận cho thông hòa
Bởi ông ta đã rõ
Chẳng dễ chiếm An Nam!

Tháng hai năm kỷ sửu
Nghìn hai trăm tám chín(2)
Nhân Tông cử người đi
Trả về Tàu các tướng:
Tích Lệ và Cơ Ngọc;
Riêng Phàn Tiếp sầu lo
Đến nỗi bệnh mà chết
Nhân Tông sai hỏa thiêu
Cấp cho người và ngựa
Đưa hài cốt về Tàu;
Các đầu mục(3) bị bắt
Cũng được thả cho về;
Duy có Ô Mã Nhi
Đã giết hại nhiều người
Nhà vua chẳng muốn tha
Nhưng ngại đường hòa hiếu
Đành phải dụng mưu thâm
Sai người đi âm thầm(4)...
Ở giữa bể lênh đênh
Chiếc thuyền kia bị chìm
Ô Mã Nhi chết đuối
Nguyên chủ trách được ai?
Chú thích:
(1)       Nghìn hai trăm tám tám: 1288
(2)       Nghìn hai trăm tám chín: 1289
(3)       Đầu mục: người chỉ huy một toán quân nhỏ
(4)       Có sách viết: gia tướng của Hưng Đạo Vương là Yết Kiêu, được cử đi theo thuyền, nửa đêm lặn dưới nước, đục thủng chiếc thuyền chở Ô Mã Nhi...


7/ ĐỊNH CÔNG, PHẠT TỘI:
Tháng tư năm kỷ sửu
Năm một nghìn hai trăm tám chín
Sau cuộc chiến, việc bời bời
Lúc này vua mới định tội, thưởng công
Nhà vua Trần Nhân Tông ban bố:
Cuộc chiến tranh ngày đó xảy ra
Hễ ai mà có công to
Là vương hầu, vua cho thăng trật
Là tướng sĩ khác họ, vua ban quốc tính(1)...

Phạm Ngũ Lão người làng Phù Ủng
Được thăng làm Quản Thánh dực quân;
Nguyễn Khoái lãnh tước Liệt hầu(2)
Vua ban thực ấp: một làng (Khoái Châu);(3)
Chúa mường(4) cũng được phong hầu
Ấy là vua kể người nào có công
Người đã dám xả thân diệt giặc
Dẫn dân binh đi bắt địch quân!
Nhà vua sai bảo văn thần
Tận tường ghi chép công danh người hùng
Viết thành quyển: TRUNG HƯNG THỰC LỤC
Giúp đời sau, ký ức không phai;
Vua sai thợ vẽ chân dung
Vẽ hình các tướng, anh hùng nước Nam
Gác công thần, các tranh treo đó
Hằng nêu cao ý chí người xưa!

Định công rồi...
Vua xét tội những người hàng giặc:
Khi quân Nguyên mặc sức ngang tàng
Triều thần lắm kẻ hai mang
Âm thầm viết giấy xin hàng tướng Nguyên
Khi giặc chạy cuống cuồng về nước
Thư xin hàng lúc trước còn đây
Đình thần có vị phán ngay:
“Đem ra trị tội hạng này cho xong!”
Thượng Hoàng Trần Thánh Tông bèn nói:
“Kẻ tiểu nhân, chấp tội ích chi!”
Nói rồi, sai một bề tôi
Đem đi đốt hết các thư xin hàng.
Những kẻ thực đã sang hàng giặc
Hoặc xử tử, hoặc đày biệt xứ;
Còn Trần Kiện, đã thành ma
Có Trần Văn Lộng theo về cõi âm
Hai kẻ này thuộc dòng tôn thất
Con cháu nay bị tước họ Trần(5)
Duy: Trần Ích Tắc sa chân
Tham sinh húy tử nhục thân xin hàng
Tình cận thân vua càng khó xử
Ý răn đời vua phải nêu ngay
Từ nay tên gọi “Ả Trần”(6)
Ban cho Ích Tắc làm tên thường dùng;
Bọn quân dân đường cùng hàng giặc
Vua thương tình tự khắc tha cho
Tội to phải kể hai làng
Bàng Hà, Ba Điểm ra hàng đầu tiên
Giặc mới đến đã xin hàng giặc
Cả làng sao bạc nhược như nhau
Từ nay cho đến mai sau
Tuổi hoàng nam, ắt phải mau đi lính
Mộng làm quan, chấm dứt từ đây!

Thưởng công, phạt tội xong rồi
Thái Thượng Hoàng về Thiên Trường phủ
Mỗi vuổi chiều nghe gió ru lá hát
Hồn thanh thoát an nhiên

Tháng năm, năm canh dần
Nghìn hai trăm chín mươi
Thượng Hoàng rời dương thế
Ngài về với tổ tiên!
Chú thích:
(1)       Quốc tính: họ của nhà vua
(2)       Liệt hầu: chỉ những ai trong tôn thất hoặc là công thần mới được vua ban chức này
(3)       Khoái Châu: Nguyễn Khoái được vua ban cho một làng làm thực ấp(hoa lợi trong làng phải trích lại một phần theo quy định của triều đình, phần này vua ban cho Nguyễn Khoái)), lúc ấy tên làng được gọi là Khoái lộ, mãi sau này thành phủ Khoái Châu, thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay
(4)       Chúa mường: chỉ các tù trưởng, người đứng đầu làng tộc Mường, Tày, Thái, Dao...
(5)       Tước họ Trần: con cháu của hai ông này đều phải đổi sang họ Mai
(6)       Ả Trần: ý chê bai là nhát như đàn bà con gái; thiết nghĩ, một người có học vấn rộng nhiều tài hoa như Trần Ích Tắc bị xử phạt kiểu này cũng không phải là nhẹ


8/ ĐỊNH CUỘC HÒA HIẾU:
Sau hai lần thất bại
Vua Nguyên phải hiếu hòa
Nhưng lòng vẫn chưa nguôi
Vẫn có ý báo thù
Muốn cất binh đánh nữa
Cận thần đều can ngăn:
“Xin vua sai sứ giả
Sang An Nam chiêu dụ
Vụ này nếu chẳng xong
Bấy giờ ta hẵng tính!”.
Vua Nguyên nghe cũng thuận
Liền sai quan Thượng thư
Là ông Trương Lập Đạo
Mau sang sứ An Nam.

Nhà vua Trần Nhân Tông
Trước khi gặp sứ giả
Cũng đã hiểu ý rồi
Ngài nói với Lập Đạo:
“Quả nhân đang có tang
Chẳng thể sang quý quốc
Sẽ cử người sang thay!”;
Vua sai Nguyễn Đại Phạp
Thay mặt vua sang Tàu
Nguyễn Đại Phạp đi sứ
Nói với vua Nguyên rằng:
“Chúa tôi xin cáo tang
Không thể sang quý quốc
Xin để qua năm sau!”

Thế rồi, qua năm sau
Không thấy động tịnh gì
Nguyên triều họp bàn nhau
Sai Trần Phu, Lương Tằng
Qua An Nam lần nữa
Giục Nhân Tông sang chầu.
Vua Nhân Tông chẳng đi
Sai ông Đào Tử Kỳ
Đem lễ vật sang cống;
Không thấy mặt Nhân Tông
Vua nhà Nguyên giận lắm
Bèn bắt luôn Tử Kỳ
Rồi sai Lưu Quốc Kiệt
Cùng các tướng bàn thảo
Chọn lấy ngày khởi binh
Ai nấy lo chuẩn bị
Lại sai Trần Ích Tắc
Về hội ở Tràng Sa
Chúng còn đương sửa soạn
Hốt Tất Liệt qua đời
Nguyên Thánh Tông lên ngôi
Việc khởi binh đành bãi
Tử Kỳ được tha về
Kể từ đó mới thôi
Chiến tranh không bàn nữa
Hai nước lại thông hòa!

(còn tiếp: NHÀ TRẦN PHẦN HAI)

VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN




VIỆT NAM SỬ LƯỢC TRONG THƠ

VNSL: PHẦN BA - THỜI KỲ TỰ CHỦ


5/ HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN:
Vừa nghe xong tin dữ:
“Thủy quân đã vỡ tan!”
Thoát Hoan vội cuống cuồng
Dẫn theo A Bát Xích
Trình Bằng Phi, Trương Ngọc
Áo Lỗ Xích, Trương Quân
Tất cả noi đường bộ
Chạy bổ về biên giới
Về tới ải Nội Bàng
Bỗng gặp quân mai phục;
Phạm Ngũ Lão xông ra
Chặn đường lui của địch
Địch vừa lui vừa đánh
Cố mở đường thoát thân
Trương Quân đi chặn hậu
Đã chẳng thể nói năng
Lưỡi gươm Phạm Ngũ Lão
Tiễn Trương Quân về trời;
Thoát Hoan còn chút may
Vượt thoát qua cửa ải
Chỉ riêng toán quân này
Đã chết hơn một nửa.

Thoát Hoan cùng thuộc hạ
Trên đường chạy tháo thân
Nghe tin đồn rộng khắp
Từ cửa ải Nữ Nhi
Đến mãi núi Kỳ Cấp
Hơn trăm dặm đường trường
Quân nhà Trần phục sẵn
Bọn giặc Nguyên xôn xao
Chưa biết tính thế nào
Chúng nghe từ mé sau
Tiếng quan quân đuổi gấp
Thoát Hoan sai Trương Ngọc
Cùng với A Bát Xích
Kíp đi trước mở đường
Rồi sai Áo Lỗ Xích
Dẫn quân đi đoạn hậu.

Trương Ngọc, A Bát Xích
Gặp quân Trần mai phục
Từ hai bên sườn núi
Tên bắn xuống như mưa
Mũi tên đều tẩm độc
Cả hai tướng nhà Nguyên
Tử trận ngay chốn ấy
Binh tướng cùng phơi thây
Nằm ngổn ngang từng đống;
Mãnh tướng Trình Bằng Phi
Gắng tả xung hữu đột
Cốt bảo vệ Thoát Hoan
Rút lui về Đan Kỹ
Rồi đi qua Lộc Châu
Lẻn theo con đường tắt
Họ đến được Tư Minh;
Áo Lỗ Xích đoạn hậu
Cuối cùng cũng thoát thân
Hắn nhặt nhạnh tàn quân
Vội đuổi theo chủ tướng
Cắm cúi về Yên Kinh.

Thắng to sau trận này
Trần Hưng Đạo hội binh
Tập hợp các tướng lĩnh
Rước xa giá trở về
Khi về đến Long Hưng
Vua Nhân Tông ra lệnh
Dẫn tướng Ô Mã Nhi
Cùng với ông Phàn Tiếp
Tích Lệ và Cơ Ngọc
Cả đám bọn tù binh
Vào làm lễ hiến phù(1)
Ngay tại trước Chiêu Lăng!(2)

Giang sơn được thái bình
Thượng Hoàng Trần Thánh Tông
Cảm hứng có thơ rằng:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông thiên cổ vững âu vàng(3).

Về lại thành Thăng Long
Nhà vua sai mở tiệc
Khao thưởng khắp chư quân
Cho dân gian mở hội
Ôi, Thái bình diên yến!
Hỷ hoan suốt ba ngày!!!
Chú thích:
(1)       Hiến phù: dâng nộp những người bắt được
(2)       Chiêu lăng: lăng mộ của Trần Thái Tông
(3)       Thơ viết bằng chữ Hán, do tác giả Trần Trọng Kim dịch nghĩa

VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: SỨ AN NAM SANG TÀU XIN HÒA



VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: TRẬN BẠCH ĐẰNG GIANG, Ô MÃ NHI BỊ BẮT




VIỆT NAM SỬ LƯỢC TRONG THƠ

VNSL: PHẦN BA - THỜI KỲ TỰ CHỦ



4/ TRẬN BẠCH ĐẰNG GIANG--Ô MÃ NHI BỊ BẮT:
Thua trận ở Vân Đồn
Lương thảo chẳng còn chi
Thoát Hoan cử người đi
Quay về Tàu cầu viện.
Hưng Đạo Vương biết ý
Sai tướng lĩnh lên đường
Bố phòng núi Kỳ Cấp
Giữ chắc ải Nữ Nhi
Vùng Lạng Sơn biên giới
Ngăn người Tàu qua lại.

Tướng nhà Nguyên e ngại
Nói với Thoát Hoan rằng:
“Quân ta đóng nơi đây
Thành trì thì không có
Kho lương cũng sắp cạn
Trời tàn xuân sang hạ
Không khí dần oi ả
Thực lực của quân ta
Sẽ bị tiêu hao dần
Những nơi nào hiểm yếu
Đã vào tay nhà Trần
Chi bằng ta rút quân
Sau này tìm kế khác!”
Bụng Thoát Hoan cũng thuận
“Quân thế phía An Nam
Đang trong tay Quốc Tuấn
Không dễ phá lúc này!”
Ông đồng ý rút quân
Bắt đầu ra chỉ thị
Lệnh cho Ô Mã Nhi
Cùng với ông Phàn Tiếp
Theo lối sông Bạch Đằng(1)
Đưa thủy quân về trước;
Lệnh cho Trình Bằng Phi
Dẫn bộ binh chặn hậu;;
Thoát Hoan lãnh đại binh
Điều khiển bọn tướng sĩ
Chuẩn bị rút quân về.
Hưng Đạo Vương biết ý
Bèn cử Nguyễn Khoái đi
Dẫn binh qua đường tắt
Men theo dọc bờ sông
Vùng thượng lưu Bạch Đằng...
Lại sai Phạm Ngũ Lão
Cùng ông Nguyễn Chế Nghĩa
Lên cửa ải Nội Bàng(2)
Nằm phục binh chờ sẵn
Đón lõng bọn giặc Nguyên...
Phân phó xong đâu đấy
Hưng Đạo Vương tiến quân...
Tới gần con sông Hóa(3)
Chợt có tin báo rằng:
“Đoàn quân Ô Mã Nhi
Đã về sông Bạch Đằng!”
Vương liền trỏ Hóa Giang
Trước toàn quân, nghiêm thệ:
“Trận này mà không thắng
Ta thề không trở về
Hỡi dòng sông Hóa Giang!”
Quân sĩ cũng hô vang
Đồng lòng xin quyết chiến
Cả đoàn quân thẳng tiến
Cùng đến Bạch Đằng Giang!...

Đoàn Nguyễn Khoái ra đi
Kiếm gỗ, đẽo cọc nhọn
Đem cọc nhọn bịt sắt
Đóng khắp giữa dòng sông
Rồi phục binh đợi sẵn...
Khi Bạch Đằng triều dâng
Thuyền lâng lâng khiêu chiến
Chiến thuyền Ô Mã Nhi
Theo sau là Phàn Tiếp
Giáp tới đánh quân Trần
Nguyễn Khoái vờ thua trận
Hô quân chạy trở về
Dòng sông nước mênh mông
Cảnh vật kia vô tình
Khiến địch quân khinh thị
Ô Mã Nhi hăng máu
Giục chiến thuyền đuổi mau;
Nguyễn Khoái dụ địch vào
Đã thật xa bãi cọc
Cho thuyền quay lại đánh
Hai bên đánh đương hăng
Đại quân An Nam đến
Hưng Đạo Vương kia rồi!...
Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp
Thấy quân Trần thế mạnh
Nhanh tay cho thuyền về
Thủy triều đang rút xuống
Bãi cọc lộ cả ra
Thuyền quân Nguyên nghiêng ngả
Đắm vỡ nát tơi bời
Quân An Nam thừa thắng
Xông lên đánh cực hăng
Quân Nguyên chết như rạ
Máu đỏ cả khúc sông
Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp
Tích Lệ và Cơ Ngọc
Đều bị ta bắt sống.

Trận Bạch Đằng năm ấy
Năm mậu tý, tháng ba
Nghìn hai trăm tám tám(4)
Ta đại thắng quân Nguyên
Bắt được nhiều binh sĩ
Chiến thuyền ta thu về
Bốn trăm chiếc có hơn
Bạch Đằng Giang gợn sóng
Hòa cùng tiếng quân reo!
Chú thích:
(1)       Sông Bạch Đằng: thuộc huyện Thủy Nguyên ở tỉnh Kiến An bấy giờ, nay thuộc tỉnh Hải Phòng.
(2)       Ải Nội Bàng: thuộc thị trấn Chũ, tỉnh Bắc Giang ngày nay
(3)       Sông Hóa: là một con sông thuộc về Sông Thái Bình, ở giáp ranh tỉnh Kiến An và tỉnh Thái Bình. Nay ở đấy dân sở tại còn nhớ chỗ con voi của Hưng Đạo Vương qua sông Hóa sa lầy mà chết.
(4)       Nghìn hai trăm tám tám: 1288

VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN


VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: TRẬN VÂN ĐỒN, TRẦN KHÁNH DƯ CƯỚP LƯƠNG GIẶC




VIỆT NAM SỬ LƯỢC TRONG THƠ

VNSL: PHẦN BA - THỜI KỲ TỰ CHỦ



3/ TRẬN VÂN ĐỒN--TRẦN KHÁNH DƯ CƯỚP LƯƠNG CỦA GIẶC:
Đóng quân ở Vạn Kiếp
Mãi chẳng làm được chi
Lương thực thì sắp hết
Thoát Hoan cử người đi
Ra cửa bể Đại Bàng(1)
Đón thuyền lương ngoài ấy;
Ô Mã Nhi nhận lệnh
Dẫn một đoàn thủy quân
Đi tìm Trương Văn Hổ
Để đón lấy thuyền lương
Khi qua ải Vân Đồn(2)
Gặp quân Trần Khánh Dư(3)
Hai bên liền xáp trận
Quân nhà Nguyên đánh dữ
Quân Trần thua bỏ chạy
Ô Mã Nhi giục thuyền
Tiến thẳng ra bể khơi...

Trần Khánh Dư thua trận
Tin về tới kinh đô
Thượng Hoàng sai sứ giả
Đi bắt Trần Khánh Dư
Đưa về kinh trị tội;
Trần Khánh Dư tiếp sứ
Ông nói như thế vầy:
“Tôi làm sai tướng lệnh
Đành rằng tôi phải tội
Nhưng lòng thực mong muốn
Cho tôi chút thời gian
Quyết lập công chuộc tội!”
May còn cơ hội chăng!”

Thuyền băng băng ra bể
Bọn giặc Ô Mã Nhi
Gặp được Trương Văn Hổ
Cả bọn lại trở vô
Họ đi trước mở đường
Đoàn thuyền lương theo sau...
Thời gian qua khá mau
Trần Khánh Dư đợi sẵn
Ông tính toán kỹ rồi
“Mã Nhi đang đắc thắng
Hắn có ý coi thường
Sẽ chẳng lo bị chặn
Sẽ đi trước thuyền lương...”
Đương nghĩ suy bời bời
Khánh Dư nghe hồi báo:
“Quả như lời tướng quân
Ô Mã Nhi dẫn đầu
Đoàn thuyền lương phía sau
Chúng ta mau chặn lại!”

Cả bọn Trương Văn Hổ
Vào cửa Lục Thủy Dương(4)
Quân Khánh Dư chặn đánh
Trương Văn Hổ thua chạy
Nhảy xuống chiếc thuyền con
Chập chờn theo sóng nước
Trốn về tận Quỳnh Châu;
Đoàn tải lương của hắn
Bị công phá tơi bời
Quân Khánh Dư áp tới
Thu được nhiều khí giới;
Trần Khánh Dư thắng trận
Thư báo tiệp gởi về
Thái Thượng Hoàng mừng vui
Tội xưa không hỏi nữa
Ngài cho vời Quốc Tuấn
Bàn luận với bề tôi:
“Quân Nguyên cạn lương rồi
Chúng đang chờ tiếp tế
Nay thế thắng về ta
Chúng vẫn chưa biết chuyện
Tất vẫn còn đắc chí
Nay ta thả tù binh
Chúng sẽ về trại cũ
Báo tin cùng Thoát Hoan
Quân tướng chúng hoang mang
Bấy giờ ta tiến đánh
Trận chiến sẽ dễ dàng!”
Hưng Đạo Vương tuân lệnh
Cho thả hết tù binh
Tin tức chúng đem về
Làm xôn xao hàng ngũ...

Nói về Ô Mã Nhi
Đón thuyền lương được rồi
Hắn cầm chắc trong tay
Nhiệm vụ đã thành toàn
Trên đường về Vạn Kiếp
Đoàn chiến thuyền ung dung
Tướng, sĩ đều khinh địch
Chưa kịp về tới nơi
Chợt họ nghe tin dữ
Từ trong đám tù binh:
Thuyền lương tiêu cả rồi!”
Giật mình vì kinh sợ:
 “Lương thực, kiếm đâu ra?
Kiếm đâu ra khí giới?”
Hắn cho quân quay lại
Khi tới trại An Hưng(5)
Liền xông vô đánh phá
Trút hết cơn bực bội
Rồi mới về Vạn Kiếp.
Chú thích:
(1)       Cửa bể Đại Bàng: thuộc huyện Nghi Dương, tỉnh Hải Dương
(2)       Ải Vân Đồn: Vân Hải, tỉnh Quảng Yên
(3)       Trần Khánh Dư: Nhân Huệ Vương
(4)       Cửa Lục Thủy Dương: phía đông nam huyện Hoành Bồ, tức là vịnh cửa Lục ngày nay
(5)       Trại An Hưng: thuộc Quảng Yên

VNSL: CHƯƠNG VII-CHỐNG QUÂN NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI: TRẬN BẠCH ĐẰNG GIANG, Ô MÃ NHI BỊ BẮT