Hình thức
của mỗi bài thơ được quyết định bởi nhiều yếu tố:
1/ Vần(vận)
và nhịp điệu
-Vần thường
được nhận biết qua các từ có chứa trong câu thơ, còn nhịp điệu thì được nhận biết
bằng cách đọc và nghe.
-Đọc thơ và nghe thơ rất quan
trọng trong một quá trình sáng tác thơ. Đọc và nghe thơ giúp bạn nhận ra nhịp
điệu và âm thanh của bài thơ, để bạn có thể thay đổi những từ ngữ ở chỗ tai bạn
nghe chưa vừa ý, cũng như tìm những từ ngữ khác để thay thế sao cho nhịp điệu của
bài thơ trở nên mượt mà sôi nổi, hoặc trở nên thiết tha réo rắt hơn.
Đọc thơ phải đúng cách, đó là
đọc đúng cách ngắt nhịp trong mỗi dòng thơ, nhịp điệu này tùy thuộc vào những từ
ngữ mà tác giả sử dụng. Khi bạn đọc đúng theo nhịp điệu của bài thơ, bạn sẽ hiểu
được hết những ý tứ mà tác giả muốn bày tỏ; đồng thời, đọc đúng chỗ ngắt nhịp sẽ
tạo cho bài thơ có tiết tấu như một bản nhạc vậy(mời nghe đọc thơ Hai Nghìn Năm
Vẫn Đợi)
2/ Âm
thanh và âm tiết:
-Trong tiếng
Việt, mỗi từ có chứa các dấu như: sắc, hỏi, ngã, nặng gọi là thanh trắc; những
từ có dấu huyền và không có dấu thì gọi là thanh bằng. Mời xem bài tham khảo dưới
đây:
Luật thơ Lục
Bát - Song Thất Lục Bát / Cách làm thơ và Luật làm thơ! * Sai Mon Thi Dan
Những từ
phát ra âm thanh nghe giống nhau được sử dụng để gieo vần cho những câu thơ
trong một bài thơ, đối với mỗi thể loại thơ thì có những luật gieo vần của
riêng nó.
-Mỗi từ
của tiếng Việt chỉ có một âm tiết, vì thế số từ trong mỗi dòng thơ Việt cũng
chính là số âm tiết của câu thơ. Khác với tiếng Việt, mỗi từ trong tiếng Anh có
từ 1-5 âm tiết. Ví dụ: international có
5 âm tiết.
-Số từ
trong mỗi dòng thơ, hay một cặp câu liên tiếp tùy thuộc vào thể loại thơ, hoặc
tùy thuộc ý tưởng của tác giả(đối với thơ tự do)
Một số
ví dụ minh họa:
*Thơ Lục
Bát là thể thơ gồm các cặp câu “lục bát”, mỗi cặp gồm một câu 6 chữ(6 âm tiết) và
một câu 8 chữ(8 âm tiết)-ví dụ:
Lá ơi, hát khúc yêu thương
Cho em
ôm trọn quê hương vào lòng
(trích :”Lá ơi!” Hoa Mặt Trời)
*Thơ
Song Thất Lục Bát là thể thơ trong đó có nhiều tứ thơ, mỗi tứ thơ gồm có hai
câu 7 chữ(Song Thất) trước một cặp câu Lục Bát. Ví dụ:
Đêm trở
giấc canh khuya lẻ bóng
Tựa thềm
hoa lặng ngóng trông ai
Lệ tuôn
đẫm ướt mi dài
Có hay
chăng hỡi non đoài người ơi
(trích “Nhớ người trong thơ” tác giả Hoàng
Mai
3/ Khổ
thơ: là một đơn vị trong cấu trúc của một bài thơ, nó tương tự như một đoạn ở văn
xuôi. Trong một bài thơ gồm nhiều khổ thơ, thì giữa các khổ thơ được chia cách
bằng một dòng trắng. Mỗi khổ thơ có thể gồm 3, 4, 5, 6, hay 7-8 dòng tùy theo ý
tưởng của tác giả.
Thơ Việt
Nam có nhiều thể loại, mỗi hình thái lại có những luật riêng trong cách gieo vần
và chọn câu chữ. Ví dụ như thơ Lục Bát, Song Thất Lục Bát, Thất Ngôn Tứ Tuyệt,
Thất Ngôn Bát Cú... Mời xem bài tham khảo dưới đây:
Hướng
dẫn làm thơ lục bát và song thất lục bát hay dành cho mọi lứa tuổi - Kênh học
đường
Ngoài
ra, còn có thơ ngũ ngôn, mỗi câu thơ gồm 5 âm tiết... Thơ tự do thì không quy định
là bao nhiêu âm tiết cũng như không có quy tắc rõ ràng trong khi gieo vần; tuy
nhiên, nó vẫn phải có nhịp điệu và vần điệu hẳn hoi, điều đó tùy thuộc vào cảm
hứng của tác giả, và tùy thuộc vào ý tưởng của dòng thơ.
4/ Ngoài
3 yếu tố cấu thành một bài thơ như: nhịp điệu, vận luật và khổ thơ; còn có những
yếu tố khác như: câu vắt dòng, sự ngắt nhịp, dấu chấm câu, sự lập lại một từ hoặc
một nhóm từ, hoặc một số từ với âm thanh tương tự xuyên suốt bài thơ.
Khi
chúng ta nghe những câu thơ có dấu ngắt câu hoặc những câu thơ vắt dòng, hoặc
những từ được lập đi lập lại nhiều lần, ta có cảm giác mạnh mẽ, da diết, nhanh
hoặc chậm như tiết tấu của một bài hát vậy.
*Câu vắt
dòng: một câu chạy từ 1 dòng thơ này đến dòng kế tiếp mà không có dấu ngắt câu
Ta hãy xem xét những câu thơ dưới đây:
Ánh mắt ấy xao xuyến trong vườn Giệt-si-ma-ni
Một ánh mắt hiến dâng, trút hơi thở cuối cùng!
Ánh mắt ấy, hai nghìn năm vẫn đợi
Đợi...
Một ánh mắt cảm thông tìm con người lầm lỡ
Tìm sẻ chia cho những ai cơ nhỡ
Tìm an ủi bên một người đang than khóc.
Đợi...
Một ánh mắt ân cần bên vệ đường
Nhìn người ăn xin khốn khó.
Và ở đâu sẽ có,
Một ánh mắt đỡ nâng người tuyệt vọng?
Khích lệ kẻ yếu đuối?
Bênh vực kẻ thế cô?
Đôi mắt ấy, hai nghìn năm vẫn đợi
Kiên nhẫn đợi trên thập tự loang lổ máu
Trích trong “Hai nghìn
năm vẫn đợi” tác giả Vũ Thủy
Có thể thấy đây là bài thơ viết theo thể loại tự do, số từ và số
câu trong mỗi khổ thơ không giống nhau. Trong những câu thơ này có những từ và
cụm từ được lập đi lập lại nhiều lần như: đợi, tìm, ánh mắt...
Và có những câu thơ vắt
dòng như dưới đây:
1-- Một ánh mắt cảm thông tìm
con người lầm lỡ
Tìm sẻ chia cho những ai
cơ nhỡ
Tìm an ủi bên một người
đang than khóc.
2-- Một ánh mắt ân cần bên vệ đường
Nhìn người ăn xin khốn
khó.
Và ở đâu sẽ có,...
*Chú ý: Không phải thơ tự do là muốn viết một dòng mấy từ thì viết,
nó tùy thuộc vào sự ngắt nhịp và nhịp điệu cũng như sự gieo vần:
Ta hãy phân tích khổ thơ:
Đợi...
Một ánh mắt cảm thông tìm con người lầm lỡ
Tìm sẻ chia cho những ai cơ nhỡ
Tìm an ủi bên một người đang than khóc.
**Đợi... dòng này chỉ có một từ với dấu chấm lửng, đã thể hiện sự
chờ đợi có vẻ như lâu lắm vậy.
Ta hãy xem xét câu thơ vắt
dòng của khổ thơ đó:
**Một ánh mắt cảm thông tìm con người lầm lỡ
Tìm sẻ chia cho những ai cơ
nhỡ
Tìm an ủi bên một người
đang than khóc.
Dòng thơ đầu, tác giả đã ngắt câu ở chữ “lỡ” và dòng thứ hai ở chữ
“nhỡ”, tạo cho hai dòng thơ này ăn vần với nhau: “lỡ” và “nhỡ”. Dòng thứ hai và
dòng thứ ba đều bắt đầu bằng chữ “Tìm”, đã tạo nên sự kết dính giữa hai câu thơ,
ở đây có yếu tố liệt kê như ta đã bàn luận ở bài số 2; đồng thời có sự nhấn mạnh
đối với từ “Tìm” tạo cho những vần thơ càng trở nên nổi bật. Giả sử, ta thay đổi
chỗ ngắt dòng, thì hiệu quả sẽ khác đi:
Ví dụ 1: Đợi... một ánh mắt cảm thông tìm con người lầm lỡ
Tìm sẻ chia cho những
ai cơ nhỡ
Tìm an ủi bên một người đang than khóc.
Ví dụ 2: Đợi một ánh mắt cảm thông
Tìm con người lầm lỡ
Tìm sẻ chia cho những
ai cơ nhỡ
Tìm an ủi bên một
người đang than khóc.
Trong cả 2 trường hợp, hiệu
quả đã khác biệt rất nhiều so với nguyên bản; điều này sẽ được cảm nhận rõ ràng
hơn khi ta đọc đi đọc lại nhiều lần những câu thơ trên. Và, tất nhiên tác giả
cũng đã đọc đi đọc lại nhiều lần bản nháp của mình, chỉnh sửa nhiều lần rồi mới
đi tới kết cuộc của bài thơ có hình thức như đã trình bày ở trên.
Mời bạn xem bài kế tiếp: 6 SỰ ĐỊNH HÌNH &
CHỈNH SỬA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét